Lịch sử Nhà nước Mới (Bồ Đào Nha)

Nguyên lý chính trị của Nhà nước Mới là giáo huấn xã hội của Giáo hội Công giáo, giống như chính quyền Englbert Dollfuss đương thời ở Áo.[14] Chế độ kinh tế của Nhà nước Mới lấy xã đoàn làm trung tâm theo những thông điệp của giáo hoàng như Rerum novarum[15] và Quadragesimo anno,[15] mục đích là phòng ngừa xung độ giai cấp và ưu tiên các giá trị xã hội hơn các vấn đề kinh tế. Giáo hội Công giáo dạy rằng hiệp hội lao động là một phần của trật tự thiên nhiên như gia đình, cho nên mọi người đều vốn có quyền làm việc và thành lập công đoàn, chủ hay nhà nước không được tước đoạt. Giáo hội ủng hộ thành lập chế độ xã hội theo xã đoàn.[16]

Tân hiến pháp được một nhóm luật sư, doanh nhân, giáo sĩ và giáo sư soạn thảo dưới sự chỉ đạo của Salazar, có Marcelo Caetano đóng vai trò quan trọng.[17] Nhà nước Mới là chế độ chính trị bảo vệ quyền lợi xã đoàn thay vì cá nhân. Quyền lợi quốc gia được ưu tiên so với lợi ích riêng biệt. Người dân do các xã đoàn thay mặt, không phải các đảng phái, bởi vì Salazar cho rằng chế độ đa đảng đã thất bại hoàn toàn ở Bồ Đào Nha.[18]

Tuy nhiên, trái với Mussolini và Hitler, Salazar không hề có ý định thành lập chế độ đảng trị. Ổng phản đối khái niệm đảng phái. Tuy chỉ Liên minh Toàn quốc được hoạt động hợp pháp, chủ đích của Liên minh Toàn quốc là kiểm soát dư luận thay vì kích động dư luận. Bộ trưởng, nhà ngoại giao và công chức không bị ép phải gia nhập Liên minh Toàn quốc.[19]

Howard Wiarda nhận xét, "giới lãnh đạo của Nhà nước Mới thật lòng quan tâm về sự nghèo nàn và lạc hậu của Bồ Đào Nha. Họ muốn cắt đứt ảnh hưởng chính trị của Anh và Hoa Kỳ mà xây dựng chế độ chính trị bản xứ, cải thiện đời sống khổ sở của người nghèo thành thị lẫn nông thôn."[20]

Tân hiến pháp của Salazar tồn tại tới năm 1974. Tổng thống do nhân dân bầu, nhiệm kỳ bảy năm. Tổng thống có quyền hạn rộng lớn, gần như độc tài, bao gồm quyền bổ nhiệm, cách chức thủ tướng.[21] Tổng thống là người phân xử tối cao của chính trị quốc gia.[21][lower-alpha 2] Tuy nhiên, Tổng thống Carmona cho phép Salazar tự do hành động sau khi bổ nhiệm. Carmona và các hậu nhiệm chủ yếu là bù nhìn, trong khi Salazar nắm thực quyền. Wiarda cho rằng Salazar lên nắm quyền được không chỉ nhờ hiến pháp mà còn nhờ nhân cách: độc đoán, đầy tham vọng, cần cù và thông minh tuyệt đỉnh.[23] Quốc hội là cơ quan lập pháp. Chỉ thành viên Liên minh Toàn quốc được vào Quốc hội. Phạm vi làm luật của Quốc hội không được tác động tới ngân sách nhà nước.[24] Viện Xã đoàn gồm đại biểu các thành phố, các tổ chức tôn giáo, văn hóa, nghề nghiệp và các nghiệp đoàn nhà nước.

Hiến pháp được phê chuẩn trong cuộc trưng cầu ý dân vào ngày 19 tháng 3 năm 1933.[21][25] Dự thảo hiến pháp được công bố một năm trước và người dân được mời góp ý kiến cho báo chí,[25] nhưng ý kiến phản đối thường khá chung chung. 99.5% số phiếu tán thành phê chuẩn hiến pháp, chỉ ít hơn 6,000 người bỏ phiếu chống,[25] nhưng có 488,840 người không đi bỏ phiếu mà vẫn tính[25] là tán thành[26] (danh sách cử tri có 1,330,258 người). Hugh Kay lập luận rằng số người không đi bỏ phiếu lớn có thể là do chỉ được tán thành hoặc không tán thành toàn bộ hiến pháp mà không được biểu quyết từng điều khoản.[25] Phụ nữ lần đầu tiên được đi bỏ phiếu ở Bồ Đào Nha, tuy phải tốt nghiệp trung học, trong khi đàn ông thì chỉ cần biết đọc viết. Nền Đệ nhất Cộng hòa không cho phụ nữ quyền bầu cử, bất kể nỗ lực của phong trào nữ quyền.[27]

Năm 1933, chính quyền thành lập chế độ bảo hiểm xã hội toàn diện theo chủ nghĩa xã đoàn,[28] vừa chống chủ nghĩa tư bản vừa chống xã hội chủ nghĩa. Giai cấp lao động bị xã đoàn hóa, doanh nghiệp chịu quy định pháp luật chặt chẽ. Tuy các tổ chức người lao động phải chịu sự kiểm soát của nhà nước, nhưng người lao động lần đầu tiên được công nhận quyền lợi và được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội.[29] Tuy nhiên, các tổ chức xã đoàn không phải là trung tâm quyền lực, cho nên chủ nghĩa xã đoàn chưa phải là nền tảng chân chính của chế độ.[30]

Năm 1934, chính quyền nghiền nát Phong trào Nghiệp đoàn Toàn quốc[31] và đày Francisco Rolão Preto, lãnh tụ của phong trào đi lưu vong. Salazar chỉ trích tính ngoại lai của phong trào (ám chỉ chủ nghĩa quốc xã) và "sự tâng bốc thanh niên, sự sùng bái vũ lực, sự suy tôn quyền lực nhà nước trong đời sống xã hội và xu hướng tập hợp quần chúng quanh một lãnh đạo" là sự khác biệt cơ bản giữa chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa xã đoàn Công giáo của Nhà nước Mới. Liên minh Toàn quốc của Salazar là tổ chức bao mặt trận của chế độ, cho nên không có chủ trương riêng với chế độ. Bấy giờ, nhiều nước châu Âu lo sợ tiềm năng hủy diệt của chủ nghĩa cộng sản. Salazar không chỉ cấm các đảng theo chủ nghĩa Marx, mà còn cấm luôn các đảng phát xít-nghiệp đoàn. Chế độ bị chỉ trích nhiều nhất là vi phạm quyền con người, quyền công dân để duy trì sự ổn định.[24]

Nhà nước Mới có những điểm giống với chính quyền phát xít Ý của Benito Mussolini, nhưng khác hẳn về nền tảng lý luận.[32] Tuy ngưỡng mộ Mussolini, Salazar phản đối sự độc tài phát xít là chế độ phản Công giáo, vi phạm cả pháp lý lẫn luân lý. Ông cũng coi chủ nghĩa quốc xã là có các yếu tố ngoại đạo. Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, Salazar tuyên bố: "Chúng tôi phản đối mọi hình thức chủ nghĩa quốc tế, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa nghiệp đoàn và bất cứ thứ gì có thể chia rẽ, giảm thiểu hay tiêu hủy gia đình. Chúng tôi chống chiến tranh giai cấp, chủ nghĩa vô thần và sự bất trung với nước; chống chế độ nông nô, nhân sinh quan duy vật và võ đoán".[2] Bề ngoài thì Nhà nước Mới có nhiều tổ chức phát xít, nhưng các tổ chức này không sở hữu thế lực chính trị. Sau cuộc Nội chiến Tây Ban Nha, Salazar thanh trừ các thành phần phát xít khỏi chế độ để tranh thủ Anh.[33][34]

Chiến tranh thế giới thứ hai

Bồ Đào Nha chính thức trung lập trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha (1936-39), nhưng âm thầm trợ giúp phe của Francisco Franco. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Bồ Đào Nha giữ chính sách trung lập để tránh bị Đức xâm lược. Ban đầu, chế độ tỏ đồng cảm với phe Trục, như Salazar tán thành Chiến dịch Barbarossa xâm lược Liên Xô của Đức. Tuy nhiên, đây có thể là vì lập trường chống cộng của Salazar chứ không phải vì thật lòng ủng hộ Hitler. Từ năm 1943 trở đi, Bồ Đào Nha ngả về khối Đồng minh. Bồ Đào Nha chịu cho thuê căn cứ không quân ở Azores do bị khối Đồng minh dọa xâm lược nếu không chấp nhận yêu cầu. Nhờ chính thức trung lập nên Bồ Đào Nha được buôn bán với cả hai bên, chỉ phải ngưng bán tungsten và cao su cho Đức vào năm 1944 sau khi khối Đồng minh gây sức ép.[35][36] Lisboa là căn cứ cho Hội Chữ thập đỏ Quốc tế hoạt động giúp đỡ các tù binh Đồng minh và là điểm trung chuyển chính giữa Anh và Hoa Kỳ.[37]

Năm 1942, quân Úc chiếm đóng Timor thuộc Bồ Đào Nha, nhưng sớm bị quân Nhật áp đảo. Bồ Đào Nha giành lại được kiểm soát Đông Timor sau khi Nhật Bản đầu hàng vào năm 1945.[38]

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chế độ kinh tế xã đoàn ngày càng lạc hậu, nhưng Salazar tiếp tục cố chấp mà đình trệ sự phát triển kinh tế lâu dài của Bồ Đào Nha.[39] Salazar cho phép mở rộng tự do một phần. Phe đối lập được tổ chức hợp pháp, báo chí được tự do hơn. Tuy nhiên, các đảng đối lập vẫn bị nhà nước điều khiển, hạn chế và thao túng, cho nên không có một phe đối lập thống nhất.[40] Năm 1945, Salazar cho phép thành lập Phong trào Đoàn kết Dân chủ. Phong trào Đoàn kết Dân chủ tẩy chay cuộc bầu cử ngày 18 tháng 11 năm 1945, Salazar thắng cử.[41] Năm 1949, Bồ Đào Nha trở thành một thành viên sáng lập của NATO.

Năm 1951, Tổng thống Óscar Carmona qua đời sau 25 năm tại chức, được Francisco Craveiro Lopes kế nhiệm. Lopes không chịu cho Salazar toàn quyền hành động như Carmona và Salazar bị buộc phải từ chức vào năm 1958. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1958, Bộ trưởng Hải quân Américo Tomás, là ứng cứ viên của chính quyền đắc cử 52.6% số phiêu bầu, Tướng Humberto Delgado là ứng cử viên đối lập là chỉ giành được 25% số phiếu bầu.[42] Chẳng mấy ai nghĩ rằng cuộc bầu cử tự do và công bằng và sau này lộ ra bằng chứng rằng chính quyền đã nhồi thùng phiếu bằng phiếu bầu cho Tomás. Nguyên nhân là Delgao đã trả lời phóng viên rằng ông sẽ cách chức Salazar nếu đắc cử, biết rõ rằng quyền cách chức thủ tướng của tổng thống là giới hạn duy nhất đối với quyền lực của Salazar. Các cuộc mít-tinh của Delgado thu hút đám đông lớn. Sau cuộc bầu cử, Delgado bị tước quân hàm và phải xin tị nạn ở đại sứ quán Brasil trước khi trốn ra nước ngoài. Ông dành nhiều thời gian ở Brasil, sau ở Algeria. Để đề phòng khả năng phe đối lập đắc cử tổng thống vào năm 1965, Salazar bỏ bầu cử trực tiếp, ra quy định mới rằng tổng thống do Quốc hội bầu.[43]

Ngày 23 tháng 1 năm 1961, sĩ quan Henrique Galvão chỉ huy vụ cướp tàu hành khách Santa Maria. Galvão có ý định lái tàu đến Angola để thành lập chính quyền đối lập ở Luanda. Về mặt tuyên truyền chống chế độ thì Galvão thành công, tuy một người chết. Galvão thả các hành khách để được tị nạn chính trị ở Brasil.[44]

Năm 1962, chính quyền vì lo sợ tư tưởng dân chủ và cộng sản ngày càng phổ biến trong giới sinh viên mà bắt đầu trấn áp các phong trào sinh viên. Một vài hội sinh viên bị giải tán. Hầu hết các hội viên đều ủng hộ phe đối lập, sẵn sàng dùng vũ lực, có nhiều hội viên theo cộng sản. Các nhà hoạt động chống chính quyền hay bị mật thám điều tra, bắt bớ. Tùy theo mức độ nghiêm trọng của tội mà sinh viên hoặc bị bỏ tù hoặc bị chuyển tới trường đại học khác để phá vỡ mạng lưới đối lập và cơ cấu lãnh đạo. Giới sinh viên biểu tình đáp trả, có Đảng Cộng sản Bồ Đào Nha bí mật ủng hộ mạnh. Ngày 24 tháng 3, sinh viên tổ chức các cuộc biểu tình lớn ở Lisboa, bị cảnh sát cơ động trấn áp dữ dội. Marcelo Caeano, vị hiệu trưởng Đại học Lisboa từ chức.

Hàng trăm nghìn người Bồ Đào Nha ra nước ngoài mỗi năm để tìm việc làm ở nước ngoài mà trốn quân dịch ở các thuộc địa của Bồ Đào Nha. Trong hơn 15 năm, gần một triệu người định cư ở Pháp, một triệu người định cư ở Hoa Kỳ, hàng trăm nghìn người định cư ở Đức, Thụy Sĩ, Anh, Luxembourg, VenezuelaBrasil. Những đảng bị chính quyền giải thể được tái lập ở nước ngoài, như Đảng Xã hội chủ nghĩa. Chỉ có Đảng Cộng sản Bồ Đào Nha tiếp tục hoạt động bí mật trong nước.

Năm 1964, Delgado thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Bồ Đào Nha ở Roma, tuyên bố chỉ binh biến mới lật đổ được Nhà nước Mới. Nhiều người khác kêu gọi khởi nghĩa toàn quốc.[45] Delgado và thư ký người Brasil của ông, Arajaryr Moreira de Campos bị mật thám Bồ Đào Nha ám sát vào ngày 13 tháng 2 năm 1965 ở Tây Ban Nha.

Vài học giả bảo thủ người Bồ Đào Nha nhận định,[13] chính sách của Salazar ổn định tình hình chính trị, tài chính, lập lại nền trị an xã hội và giúp phát triển kinh tế sau thời kỳ bất ổn, hỗn loạn của nền Đệ nhất Cộng hòa. Những nhà sử học khác thì[46] chỉ ra rằng chính sách từ thập niên 1930 đến thập niên 1950 dẫn đến đình trệ kinh tế, xã hội và chảy máu chất xám tràn lan, biến Bồ Đào Nha thành một trong những nước nghèo nhất ở châu Âu, có tỷ lệ mù chữ cao hơn các nước láng giềng ở Bắc Bán cầu.

Năm 1968, Salazar bị đột quỵ. Vì xét rằng Salazar gần đất xa trời nên Tomás bổ nhiệm Marcelo Caetano làm thủ tướng mà không báo ông biết. Salazar mất năm 1970 tin rằng mình vẫn là thủ tướng. Nhiều người mong Caetano sẽ cải cách chế độ một phần và hiện đại hóa nền kinh tế. Caetano thi hành các chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tăng bảo hiểm xã hội, như cấp lương hưu cho người lao động nông thôn không có cơ hội tham gia đóng bảo hiểm xã hội. Vài dự án quy mô toàn quốc được khởi công, như nhà máy lọc dầu lớn ở Sines. Ban đầu, nền kinh tế tăng trưởng tích cực, nhưng vài vấn đề nghiêm trọng nổi lên vào thập niên 1970, một phần do lạm phát phi mã và hậu quả của khủng hoảng dầu mỏ năm 1973. Tuy nhiên, khủng hoảng dầu mỏ có thể đã có lợi cho Bồ Đào Nha bởi chính quyền đang nhanh chóng khai thác các trữ lượng dầu chưa khai thác ở AngolaSão Tomé và Príncipe.

Tuy Caetano cơ bản ủng hộ chế độ độc tài, nhưng có vài chính sách để mở rộng tự do. Ông tăng tự do ngôn luận, báo chí chút ít. Tuy nhiên, một bộ phận lớn người dân vẫn bất mãn đối với chế độ do được sinh ra sau thời kỳ bất ổn của nền Đệ nhất Cộng hòa và cũng thất vọng rằng Caetano không chịu cho đa đảng tranh cử. Trong cuộc bầu cử Quốc hội năm 1969 và năm 1973, Liên minh Toàn quốc chiếm được mọi ghế theo thường lệ. Các ứng cử viên đối lập đều bị đàn áp dã man. Cải cách thì ít mà Caetano thì phải kiệt lực vận động thuyết phục phe bảo thủ, nhất là Tomás. Caetano không được Tomás cho toàn quyền làm chính sách như Salazar. Năm 1973, Tomás và các phần tử bảo thủ khác trong chính quyền cho dừng cải cách.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nhà nước Mới (Bồ Đào Nha) http://ultramar.terraweb.biz/Noticia_joaobravodama... http://www.economist.com/world/mideast-africa/disp... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,9... http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,9... http://digitalcommons.wcl.american.edu/cgi/viewcon... http://www.brown.edu/Departments/Portuguese_Brazil... http://libro.uca.edu/payne2/index.htm http://www.eric.ed.gov/contentdelivery/servlet/ERI... http://maltez.info/respublica/portugalpolitico/gru... http://www.portugal-info.net/history/second-republ...